Theo phân loại của OMS năm 1974 thì bệnh phân thành tiền ung thư và ung thư da. Tiền ung thư bao gồm hai bệnh Paget và Bowen. Ung thư da bao gồm: ung thư tế bào biểu mô da, ung thư hắc tố, ung thư tổ chức liên kết.
Nội Dung Chính
1. Tiền ung thư da
Bao gồm hai bệnh Paget và Bowen.
1.1. Bệnh Paget
Đây là một căn bệnh hiếm gặp được phát hiện và mô tả từ những năm 1874, bệnh thường xuất hiện ở nữ giới trung niên trên 40 tuổi. Vùng da bị tổn thương do bệnh Paget ở xung quanh nhũ hoa và vú, các yếu tố như sang chấn, nứt nẻ, viêm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển. Ban đầu bệnh bạn sẽ thấy những vảy tiết nhỏ hoặc các tổ chức sùi sừng hóa xung quanh khu vực vú. Vảy bóc hết lớp này thì có lớp khác thay thế, tùy từng trường hợp mà bệnh nhân có thể ngứa hoặc không.
Chẩn đoán bệnh dựa vào hình ảnh lâm sàng và hình ảnh mô bệnh học, ngoài ra còn xét nghiệm phân biệt với nấm candida, chàm vi khuẩn,… Phương pháp điều trị có thể cắt bỏ tuyến vú sớm và các hạch bạch huyết ở xung quanh.
1.2. Bệnh Bowen
Bệnh Bowen có thể được coi như một loạn sừng tiền ung thư, được miêu tả lần đầu tiên vào năm 1912. Bệnh thường gặp ở độ tuổi trung niên và người già ở bất kỳ vị trí nào trên da hoặc niêm mạc. Nhận biết tổn thương là những vết hình đĩa đơn hoặc thành cụm từ 10 – 20 đám, có màu nâu sẫm, bờ vòng cung khá rõ ràng, gờ cao phẳng và nhỏ. Đặc điểm khá nổi bật đó là các vết lõm ở trung tâm tổn thương, xung quanh có gai xù xì, phân bên trên có phủ vảy tiết và vảy da.
Chẩn đoán bệnh dựa trên biểu hiện lâm sàng và mô bệnh học, chẩn đoán phân biệt với các bệnh như giang mai, vảy nến, lupus ban đỏ,… Ở giai đoạn sớm điều trị bằng phương pháp đốt điện sâu hoặc đốt lạnh, giai đoạn nặng có thể cắt bỏ tổn thương hoặc sử dụng liệu pháp quang tuyến.
Hình ảnh bệnh Bowen
2. Các loại ung thư tế bào biểu mô da
2.1. Ung thư tế bào đáy
Bệnh thường gặp ở nam nhiều hơn và có thể bị ở bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể, đa số xuất hiện ở vùng đầu cổ mặt. Ban đầu sẽ xuất hiện một dày sừng, sau đó sẽ lan rộng và thâm nhiễm, phía đá của sừng có một vết trợt. Vết này được bao phủ phía trên vảy da và vảy tiết, sau này sẽ xuất hiện các cục nhỏ đơn lẻ hoặc liên kết với nhau và mang tính chất hạt ngọc ung thư.
Bệnh gồm 6 hình thái lâm sàng như sau:
– Ung thư tế bào đáy phẳng thành sẹo.
– Ung thư tế bào đáy loét.
– Ung thư tế bào đáy nông.
– Ung thư tế bào đất nổi cao.
– Ung thư tế bào đáy dạng xơ cứng bì.
– Ung thư tế bào đáy nhiễm sắc.
Ung thư tế bào đáy phát triển chậm và không di căn, tuy nhiên cũng có trường hợp tổn thương phát triển lan rộng phá hủy các tổ chức của da, có thể lan sâu làm phá hủy mạch máu, chèn ép các dây thần kinh,…
Hình ảnh tổn thương của ung thư tế bào đáy
2.2. Ung thư tế bào gai
Bệnh xuất hiện dựa trên những tổn thương đã có sẵn, nhất là trên nền của 2 bệnh tiền ung thư Paget và Bowen, một số trường hợp hiếm trên vùng sẹo của da. Sau khi vết tổn thương lan rộng, lớp sừng sẽ dày lên, bề mặt viêm loét và thâm nhiễm sâu dưới da, trên bờ vết thương có quần đỏ và nổi lên những nụ thịt, có những trường hợp giống như nhú sừng.
Ung thư tế bào gai có 2 thể lâm sàng là:
– Ung thư tế bào gai loét sùi, đây là thể lâm sàng thường gặp nhất tại Việt Nam.
– Ung thư tế bào gai lồi cao và sùi.
– Ung thư tế bào gai nông.
Bệnh có xu hướng phát triển và xâm nhập vào các tế bào bạch huyết và các tổ chức xung quanh. Gây nên tình trạng phá hủy phần mềm, mạch máu lớn, các dây thần kinh, sụn xương. Sau một thời gian có thể xuất hiện di căn hạch, thường thấy di căn phổi, gan, ít hơn ở xương và hiếm ở nội tạng.
Ung thư tế bào gai xuất hiện dựa trên những tổn thương đã có sẵn, nhất là trên nền của 2 bệnh tiền ung thư Paget và Bowen
2.3. Chẩn đoán và điều trị
Ung thư tế bào biểu mô da đều được chẩn đoán bằng hình ảnh lâm sàng và hình ảnh mô bệnh học, kèm theo những chẩn đoán phân biệt để kết luận chính xác nhất về tình trạng bệnh. Tùy theo thể trạng của bệnh nhân và tính hình của bệnh mà áp dụng phương pháp điều trị cho phù hợp, cụ thể như sau:
– Cắt bỏ tổn thương theo hình thoi hoặc elip bằng phương pháp phẫu thuật.
– Đốt laser.
– Hóa trị liệu tại chỗ: 5-fluoro-Uraxin hoặc Retinoid.
– Phóng xạ, quang tuyến liệu pháp (tia X, tia radium).
3. Ung thư hắc tố da
Ung thư hắc tố da thuộc dạng ác tính, được phát triển từ những tế bào sản xuất melanin, bệnh thường thấy ở nữ giới trong độ tuổi trung niên. Bệnh có thể xuất hiện bất kỳ đâu trên cơ thể, thường là những chỗ thường xuyên tiếp xúc với ánh mặt trời.
Triệu chứng thường thấy của bệnh là xuất hiện những bất thường trên da như các nốt tăng sắc tố hoặc nốt ruồi cũ có sự thay đổi về hình dáng, kích thước,…
Hiện nay chẩn đoán ung thư sắc tố da dựa vào sinh thiết tổn thương, cụ thể như sau:
– Sinh thiết trọn tổn thương.
– Sinh thiết một phần tổn thương.
– Sinh thiết khoan bằng dụng cụ bấm.
Ở thời điểm đầu bệnh có thể điều trị bằng phương pháp phẫu thuật, khi bệnh vào giai đoạn nặng thì ngoài phẫu thuật phải điều trị bằng xạ trị, hóa chất hoặc liệu pháp miễn dịch.
Hình ảnh bệnh nhân bị ung thư hắc tố da
4. Ung thư tổ chức liên kết da
Ung thư tổ chức liên kết da hay sarcoma mô mềm là loại ung thư hiếm gặp nhất trong tất các cả loại, thường phát triển từ mô da sâu, mạch máu, dây thần kinh,… Dấu hiệu nhận biết rõ nhất là xuất hiện những khối u trong mô mềm không gây đau, nhưng sau khi phát triển sẽ chèn ép cơ bắp và các dây thần kinh gây đau đớn cho người bệnh.
Khi phát hiện bản thân có những dấu hiệu của bệnh cần đến cơ sở y tế để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.