Bệnh do Chlamydia là căn bệnh nhiễm xạ lây truyền qua đường tình dục do vi khuẩn Chlamydia trachomatis gây ra. Chlamydia được xem là “căn bệnh thầm lặng” ở cả nam và nữ giới, bởi có đến 50-70% người mắc bệnh không có triệu chứng điển hình. Bệnh có thể dẫn đến nhiều biến chứng nghiêm trọng, thậm chí là vô sinh nếu không được điều trị và phòng ngừa kịp thời.
Nội Dung Chính
Bệnh Chlamydia là gì?
Chlamydia là căn bệnh phát xạ lây nhiễm qua đường tình dục thường gặp. Bất kể ai quan hệ tình dục đều không hoàn toàn có nguy cơ mắc bệnh. Bệnh có xu hướng ngày một gia tăng trên toàn thế giới. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ước tính hằng năm có gần 90 triệu trường hợp nhiễm Chlamydia được phát hiện. Tỷ lệ nhiễm vi khuẩn này ở người lớn tại Nam Thái Bình Dương là 73%, Papua New Guinea là 20%, Nhật Bản 7,0%, Senegal 7,0% và Việt Nam 2,3%.
Tại Việt Nam, một nghiên cứu tại Hà Nội năm 2003 cho kết quả tỷ lệ nhiễm vi khuẩn Chlamydia: tân binh 9%, phụ nữ có thai 1,5%, người khám STD (bệnh truyền nhiễm tình dục) 1,5% , gái mại dâm 5,0%. Nghiên cứu khác tại 15 tỉnh biên giới phụ nữ mại dâm cho kết quả: Tỷ lệ nhiễm Chlamydia 11,9%, trong đó Tỷ lệ nhiễm Chlamydia Kiên Giang cao nhất 17,3%, Lai Châu 16,2%, thấp nhất An Giang 7 ,3%.
Nguyên nhân gây bệnh Chlamydia?
Bệnh Chlamydia do vi khuẩn Chlamydia trachomatis gây nên. Đây là một loại vi khuẩn nội bào không có khả năng tổng hợp các chất có năng lượng cao (ATP và GTP). Nó khác với tất cả các loại vi khuẩn khác là có chu kỳ nhân lên khác thường. Chu kỳ kế tiếp với hai hình thái rất đặc biệt để đáp ứng cuộc sống nội và ngoại bào. Chu kỳ nhân lên của Chlamydia khoảng 48 – 72 giờ, sau thời gian này vi khuẩn sẽ phá hủy tế bào và gây tổn thương niêm mạc. Chlamydia có ba biến thể sinh học khác nhau về biểu hiện lâm sàng và sinh học:
- Vi khuẩn Chlamydia Psittaci: Biến thể này thường có ở chim và chúng thường lây nhiễm ở những người chăn cừu.
- Vi khuẩn Chlamydia Pneumoniae: Nguyên nhân chính gây ra các bệnh ở đường hô hấp, bệnh có thể lây từ người sang người.
- Vi khuẩn Chlamydia Trachomatis: Đây là biến thể chính gây ra các bệnh lây nhiễm qua đường sinh dục, đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra triệu chứng đau mắt đỏ.
Chlamydia là một loại vi khuẩn đặc biệt ký sinh bắt buộc trong tế bào sống, hình cầu, có kích thước trung gian giữa vi khuẩn và vi rút do hệ thống gen di truyền, nên có thể xếp vào nhóm vi rút, cũng có thể xếp vào nhóm vi khuẩn. Chlamydia trachomatis có trong các dịch tiết ở âm đạo, niệu đạo, cổ tử cung. Nó được tìm thấy trong tự nhiên, chỉ sinh sống trong tế bào của con người.
Bệnh Chlamydia lây lan như thế nào?
Vi khuẩn Chlamydia có tốc độ tăng trưởng và sinh sản nhân đôi rất nhanh. Con đường lây lan trực tiếp chủ yếu qua đường tình dục không an toàn như đường âm đạo, hậu môn và khó chịu. Bạn tình càng nhiều, nguy cơ lây nhiễm càng cao. Bên cạnh đó, Chlamydia cũng có thể lây truyền từ mẹ sang con qua nhau thai.
Ngoài ra, vi khuẩn Chlamydia còn có thể lây qua con đường gián tiếp như:
- Tồn tại trong các vật dụng cá nhân như khăn lau, quần lót bẩn, khăn giấy bẩn… Nếu như sử dụng các vật dụng này lâu ở vùng kín thì người bệnh có thể bị nhiễm bệnh.
- Từ nguồn nước: con đường lây bệnh ít xảy ra hơn. Thông thường, những con đường này thường có tỷ lệ xảy ra cao hơn ở những khu vực sống ô nhiễm, điều kiện bảo vệ sinh kém.
Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh Chlamydia
Mọi đối tượng sinh hoạt tình dục đều có thể bị nhiễm Chlamydia. Tuy nhiên, vẫn có một số đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh, như:
- Những người quan hệ tình dục mà không sử dụng bao cao su.
- Bạn tình càng nhiều, nguy cơ càng cao.
- Không sử dụng bao cao su một cách nhất quán khi không có mối quan hệ vợ chồng.
- Người mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục khác hoặc HIV/AIDS.
- Đặc biệt, những phụ nữ đang trong giai đoạn sinh sản, nếu như có sinh hoạt tình dục sớm và không chủ động bảo vệ vùng kín.
- Người có khuynh hướng quan hệ tình dục đồng tính không an toàn.
Dấu hiệu và triệu chứng nhận biết bệnh Chlamydia
Số người bị nhiễm Chlamydia đều không phát hiện ra triệu chứng từ ban đầu. Trung bình mỗi năm có khoảng 7 triệu trường hợp mắc bệnh mà không biết mình đã nhiễm bệnh. Biểu hiện của bệnh thường rất “kín đáo”, nhẹ hoặc không rõ ràng, đến khi thấy rõ triệu chứng thì bệnh đã tiến triển đến giai đoạn cấp tính. Trong đó, tỷ lệ nữ viêm âm đạo do Chlamydia khoảng 25% – 50%, ở nam giới thường xuất hiện những triệu chứng sớm.
Bác sĩ Bạch Thị Chính, Giám đốc Y khoa hệ thống Trung tâm tiêm chủng cho Trẻ em và Người lớn VNVC cho biết, nam và nữ giới có những biểu hiện bệnh khác nhau tại cơ quan sinh dục, trong đó tình trạng đau vùng trực nối, tiết diện vùng chứa dịch và chảy máu là biểu tượng đặc trưng. Thông thường trong 1-3 tuần sau khi tiếp xúc với bệnh sẽ có những dấu hiệu như:
Triệu chứng lâm sàng ở nữ giới
- Nhiễm trùng ở cổ tử cung và niệu đạo, kèm theo đó là lượng dịch tiết bất thường ở âm đạo.
- Ngứa dữ liệu bùng phát ở vùng kín, khi đi vệ sinh đau rát, đau thường diễn ra âm ỉ sau khi quan hệ tình dục.
- Chảy máu vùng nhiễm xạ khi nhiễm trùng lây lan từ cổ tử cung đến ống dẫn trứng, khí hư có màu sắc và mùi bất thường (dịch màu vàng nhạt hoặc trắng).
- Đau bụng dưới và đau lưng, đau thắt lưng tương tự như cơn đau do bệnh viêm đường tiểu.
- Tình trạng đau bụng thường kèm theo buồn nôn, sốt cao, chảy máu giữa kỳ kinh nguyệt.
- Khi ở vùng Bụng trên do vi khuẩn có thể di chuyển và lan rộng lây lan sang trực tràng.
Triệu chứng lâm sàng ở nam giới
- Vùng bụng dưới, cảm giác đau rát ở dương vật khi đi tiểu.
- Có dịch trắng đục, mùi hôi tiết ra từ sáo dương, thường thấy vào buổi sáng.
- Rối loạn xuất tinh, dịch ít, màn hình hoặc có kèm theo máu bất thường.
- Trạng thái nóng rát và ngứa lan rộng ở đầu dương vật.
- Trong một số trường hợp nghiêm trọng, có thể bị đau và tắt cả hai bên tinh hoàn.
Đối với tình trạng nhiễm Chlamydia khi quan hệ bằng núm vú, có thể thấy nổi mụn nước ở người phụ nữ và nam giới. Người bệnh nên đi khám ngay nếu xuất hiện các dấu hiệu nghiêm trọng sau:
- Phụ nữ: Thân nhiệt tăng cao, sốt rét, đau bụng, tiết dịch âm đạo. Nếu không được can thiệp sớm có thể dẫn đến Nhiễm trùng đến cổ tử cung, tử cung và vòi trứng, tăng nguy cơ mới – vô sinh.
- Nam giới: Sốt cao kèm theo dịch mủ, kèm theo máu tiết ra từ dương vật. Tình trạng diễn ra trong thời gian dài này có thể gây ra sự tấn công đến chức năng của tinh hoàn và bìu.
Cần phân biệt bệnh Chlamydia với các bệnh lây nhiễm qua đường sinh dục như lậu, nấm Candida,… do triệu chứng của các bệnh có những điểm giống nhau và khác nhau, khó xác định chính xác. Vì vậy, khi có dấu hiệu của bệnh Chlamydia như trên, cần nhanh chóng đến bệnh viện kiểm tra, để nghi ngờ chính xác và có hướng điều trị hiệu quả, thời gian.
Xem thêm về 9 bệnh tình dục ở nam giới : dấu hiệu và cách phòng lây nhiễm .
Biến chứng của bệnh Chlamydia như thế nào?
Bệnh Chlamydia có thể gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng ở nam giới và nữ giới, cụ thể:
- Đinh và bít tắc tử cung, vòi trứng, thả trứng và các thành phần xung quanh hệ thống sinh sản phụ nữ lồng vào nhau bằng các dải lụa mỏng.
- Viêm cổ tử cung xuất tiết.
- Khoang chậu (PID): xảy ra khi vi khuẩn lan truyền, làm lây nhiễm cổ tử cung, tử cung, ống dẫn trứng và gia cầm. PID có thể dẫn đến vô sinh, thái độ bên ngoài tử cung hoặc vùng đau được trang bị tính năng.
- Chống tuyến tiền liệt: ảnh hưởng đến chức năng và chất lượng hoạt động của tinh hoàn dẫn đến tinh trùng được xuất ra không lành mạnh để thụ thai.
- Viêm học đạo: Khoảng cách 50% người mắc bệnh có biểu hiện viêm học đạo. Một số triệu chứng như đi tiểu khó (đái buốt, say rắt, đau khi đi tiểu), dịch tiết niệu đạo, dịch màu trắng đục hay trắng trong, lượng ít đến vừa.
- Hội chứng Reiter: gồm các triệu chứng viêm khớp, đỏ mắt và đường tiết niệu bất thường.
- Tăng nguy cơ nhiễm HIV/AIDS nếu có phơi nhiễm.
- Ung thư cổ tử cung có thể xuất hiện khi nhiễm vi khuẩn Chlamydia và HPV – một loại vi rút đường sinh dục.
Đối với nam giới, vi khuẩn Chlamydia gây nên viêm tinh hoàn và hòa tinh hoàn, dẫn đến vô sinh. Hơn nữa, nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng tinh trùng.
Nếu phụ nữ mang thai đã bị nhiễm bệnh có nguy cơ cao lây nhiễm cho con, nhất là mẹ sinh thường qua đường âm đạo. Trẻ sau sinh có nguy cơ mắc bệnh: Viêm, Sốc mắt và mù lòa.
Thời gian ủ bệnh do Chlamydia
Thời gian ủ bệnh của bệnh Chlamydia được tính từ sau khi bệnh nhân tiếp xúc với vi khuẩn Chlamydia trachomatis cho đến khi các triệu chứng được biểu hiện rõ ràng bên ngoài. Thông thường, thời gian ủ bệnh khá dài (7-21 ngày).
Bệnh Chlamydia có được chẩn đoán, xét nghiệm như thế nào không?
Do triệu chứng của bệnh thông thường không xuất hiện sớm nên khi có bất kỳ triệu chứng nghi ngờ nào, cần nhanh chóng đến các cơ sở y tế uy tín để thực hiện các nghiên cứu thử nghiệm Dự đoán sớm, điều trị thời gian để không chỉ tăng lên cơ hội chữa khỏi bệnh mà còn làm giảm các biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra. Các loại xét nghiệm có thể thực hiện để loại trừ bệnh Chlamydia bao gồm:
- Nuôi cấy phân lập: có đặc hiệu và độ nhạy cao (>99%). Trong nhiều năm nuôi cấy được chọn là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán nhiễm Chlamydia. Các bác sĩ có thể xác định được sự thật là có mặt của các loại thuốc lạc đáng nghi ngờ từ 24 giờ đến 48 giờ.
- Kháng thể huỳnh quang trực tiếp (DFA): phát hiện kháng nguyên Chlamydia bằng kháng thể đơn dòng có độ nhạy không cao, đạt khoảng 60-85% so với nuôi cấy. Độ đặc hiệu có thể đạt đến 99%.
- Phương pháp miễn dịch gắn men (EIA): giúp tìm thấy kháng thể kháng Chlamydia trong máu bệnh nhân làm kích hoạt hệ thống miễn dịch, độ nhạy đạt 60-80%, đặc hiệu 97-99%.
- Phản ứng PCR chuỗi (Polymerase), LCR (Ligase chain reaction) và TMA: là kỹ thuật có độ nhạy và đặc hiệu cao nhất. Thuốc lấy từ cổ tử cung, tiêu đạo và nước tiểu. Độ đặc hiệu đạt 99%, độ nhạy giao động từ 70- 100%.
Khi người bệnh đã nghi ngờ bệnh nhiễm trùng do Chlamydia gây ra, cần phải tuân thủ điều trị và có thể áp dụng điều trị dự phòng song song cho người nhiễm bệnh và bạn tình để phòng nguy cơ tái phát. Đối với phụ nữ mang thai, trước hoặc trong quá trình khám thai sản cần được thử nghiệm thường xuyên để sàng lọc bệnh.
Bệnh Chlamydia có được điều trị ra sao không?
Chlamydia là bệnh có thể điều trị bằng thuốc kháng sinh. Uống một liều duy nhất Azithromycin, hoặc Doxycyclin uống ngày hai lần trong một tuần là biện pháp điều trị được áp dụng phổ biến nhất.
Phác đồ điều trị:
Đối với nam giới, khi điều trị Chlamydia không biến chứng ở niệu đạo, cổ tử cung và trực tràng kết hợp nhóm thuốc uống sau:
- Thuốc Doxycyclin: Liều dùng 100mg mỗi ngày uống 2 viên, dùng trong 7 ngày
- Thuốc Tetracyclin: Liều dùng mỗi ngày uống 1g, dùng trong 7 ngày, hoặc
- Thuốc Azithromycin: Liều dùng mỗi ngày uống 1g, uống liều duy nhất
- Thuốc Erythromycin: Liều dùng 500mg mỗi ngày uống 4 viên, dùng trong 7 ngày
- Thuốc Ofloxacin: Liều dùng 200mg, mỗi ngày uống 2 lần, dùng trong 7 ngày.
Để điều trị Chlamydia cho phụ nữ có thai, sử dụng các nhóm thuốc sau:
- Thuốc Erythromycin 500mg: Mỗi ngày uống 4 viên, dùng thuốc trong 7 ngày
- Thuốc Azithromycin: Mỗi ngày uống 1g và uống với liều duy nhất.
Tất cả các bạn tình của người bệnh nên được khám, điều trị và thử nghiệm vào thời điểm đó. Người nhiễm Chlamydia nên kiêng quan hệ tình dục trong 7 ngày sau khi dùng Azithromycin hoặc cho đến khi đã dùng đủ 7 ngày Doxycycline, để ngăn ngừa lây nhiễm bệnh cho các bạn tình của mình.
Theo dõi sau điều trị cho thấy, có một số trường hợp có thể thực hiện tái phát hoặc tái phát thải 5-10%). Phụ nữ có quan hệ tình dục với bạn tình không được điều trị đúng mức có nguy cơ cao bị tái nhiễm. Khoảng thời gian 3 tháng sau khi đã điều trị lây nhiễm ban đầu, phụ nữ và nam giới nhiễm Chlamydia nên được kiểm tra lại, ngay cả khi các bạn tình của họ đã điều trị khỏi.
Các biện pháp phòng ngừa bệnh Chlamydia?
Chlamydia là bệnh có thể chữa khỏi, tuy nhiên không nên vì thế mà chủ quan khi phòng ngừa căn bệnh này. Cách phòng tránh tốt nhất là không quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn và bằng miệng. Nếu có quan hệ tình dục, cần phải triệt tiêu các chú ý sau:
- Sử dụng bao cao su đúng cách là cách phòng bệnh hiệu quả nhất.
- Không quan hệ tình dục bừa bãi, duy trì mối quan hệ vợ một thời gian dài từ hai phía.
- Chủ động bảo vệ bản thân bằng cách lựa chọn bạn là tình trạng an toàn, đồng thời hệ thống nhất với tình trạng của bạn về việc sử dụng biện pháp bảo vệ khi quan hệ.
- Không quan hệ tình dục trong thời kỳ nhiễm bệnh, thậm chí cả khi đang điều trị bệnh.
- Phải điều trị cho bạn tình để hạn chế tối đa nguy cơ bệnh tật tái phát.
- Kiểm tra và thử nghiệm định kỳ cho bản thân và bạn tình để phát hiện những bệnh nhiễm trùng qua đường tình dục, đặc biệt là ở những người có lối sống phóng khoáng.
- Tất cả phụ nữ ở độ tuổi sinh hoạt tình dục dưới 25 tuổi nên đi tầm soát Chlamydia ít nhất mỗi năm một lần.
- Tầm theo dõi hàng năm cũng được khuyến mãi cho những phụ nữ lớn tuổi hơn có yếu tố nguy cơ nhiễm Chlamydia (có bạn tình mới hoặc quan hệ với nhiều bạn tình).
- Lưu ý, cần sàng lọc bệnh Chlamydia đối với tất cả thai phụ để hạn chế khả năng lây truyền bệnh cho trẻ em.
Bệnh do Chlamydia có thể diễn tiến “âm thầm” và phức tạp, nếu không sớm điều trị nhất thời sẽ gây ra những biến chứng “khôn lường”. Chính vì vậy, cần biết sớm các nguyên nhân, triệu chứng, cách phòng ngừa bệnh hiệu quả sẽ giúp giảm thiểu tối đa nguy cơ biến chứng nguy hiểm.